Tự do ngôn luận là một
điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng
được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những
điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều được
nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong khi
những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là người
Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
Người ta dùng lý luận
này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có cách nào khác để
chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người,
thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.
Nhưng hãy nhìn lại câu
nói "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả" một lần nữa. Có phải chính
câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít
qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người -- chính là điều mà những người theo
tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa
ra lập luận của họ.
Một vấn đề khác với
câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều
đó. Nếu có ai nói với bạn, "Không có chân lý tuyệt đối nào cả," và
bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của
anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có
thể đúng đối với bạn.
Khi đó họ sẽ trở lại
với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: "Bao lâu bạn không làm đau
người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý." Nhưng đây chỉ là
một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi
không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?
Nếu câu này được đưa
ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác.
"Ðừng làm hại" chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng
hơn - một loại phẩm giá chung của con người. Nhưng câu hỏi lại là phẩm
giá từ đâu đến.
Như bạn có thể thấy,
càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ
phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý cao quý và phổ
quát ngoại tại -- một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta.
Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có
chân lý đó.
Nếu bạn không nghe đến
câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người
nói lên điều này thương lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa).
Những trở ngại với quan
điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác
nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa,
và Người đã chết và sống lại -- tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội
lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên,
nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lý sống còn
-- một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ điều này thôi đã
làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng nó không ngừng ở
đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan.
"Thầy là đường,
sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy." Trong Kitô giáo,
chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả các
tôn giáo chứa đựng một phần chân lý -- số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy
nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta
có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu Chúa Giêsu quả
thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.
Ðây là một luận điệu
thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là những
websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng
"Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính
là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa
thượng trí viết ra."
Những câu như thế
thường được kèm theo một danh sách những câu "mâu thuẫn" trong Thánh
Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí
dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể văn
mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại
văn tự... lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền,vv.... Nếu chúng ta đọc các
sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ
bị bối rối kinh khủng.
Và danh sách "các
mâu thuẫn" trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên
trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
"Hãy nhớ ngày
Sabát, và giữ nó cách thánh thiện." Xuất Hành 20:8
So với
"Người thì cho
rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như
nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình." Rom 14:5
Người vô thần la lên:
Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến điều mà
mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những đòi hỏi
về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những luật lệ
trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là điều
hoàn toàn hợp lý.
Nếu nhà phê bình hiểu
giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng
như thế.
Ðiều kế tiếp trong
danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
"...trái đất mãi
mãi trường tồn."
Giảng Viên 1:4
So với:
"...các nguyên tố
vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu
huỷ." 2 Phr 3:10
Vậy Cựu Ước cho rằng
trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy
diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu
biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.
Thí dụ Sách Giảng Viên
so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo - và hẩu hết sách này viết theo quan niệm
thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, "Bánh được làm
cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải quyết được tất
cả" (GV 10:19).
Tuy nhiên, ở cuối
sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả "sự khôn ngoan"
ông tặng và bảo chúng ta "Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn Ngài;
vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người.." (12:13).
Nếu một độc giả ngưng
đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ.
Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt
bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được
mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về
sự khác biệt này)
Những "mâu
thuẫn" khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như
với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn,
và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không một Kitô hữu
biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.
Luận điệu này dược
dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là "người
tốt," người đó thật sự ám chỉ rằng họ "không phải là một người
xấu." -- người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần đông
người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng: Chùng
ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức
Kitô lắm, phải không?
Nhưng bỏ qua trạng
thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là
chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống
đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó
là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người tin rằng
bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu
tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta
bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu
nguyện.
Chúa Giêsu phán,
"Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Người và uống
máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt và uống máu
Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau
hết" (Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin
tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.
Hơn nữa, bí tích Thánh
Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong Hội
Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian,
đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người khác trong Hội
Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng
chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức
Kitô. Là "người tốt" mà thôi chưa đủ.
Như một cựu mục sư
Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về
chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như
thế... thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người
ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để
biện minh tại sao không làm thế..
Bí Tích Giải Tội đã có
với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
"Chúa Giêsu lại
bảo các ông, 'Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai
các con.' Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, 'Các con hãy nhận
lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các
con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.'” (Ga 20:21-23)
Nên ghi nhận rằng Chúa
Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không biết phải
tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta phạm.
Việc xưng tội cũng
được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có ai trong anh em đau
ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người ấy,
xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu người
bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được
Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được chữa
lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn lao.
(Gia 5:14-16)
Ðiều đáng quan tâm là
không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ xưng
tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách xưng
tội công khai.
Và lý do thật dễ hiểu.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của
chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh (vì tất cả
mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng
ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ - Thiên Chúa và Hội
Thánh.
Hãy nghĩ về xưng tội
cach này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó,
bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin
Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác
liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.
Ðối với Hội Thánh cũng
thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và Hội Thánh, vì
chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ
chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
Khi một người nghĩ đến
Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như
cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến
các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican
cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những
điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.
Nhưng sự thật thì hoàn
toàn khác. Các dinh thự chính gọi là "Ðiện Vatican " không phải được xây
làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ.
Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ
thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có
một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội
Thánh.
Còn về những sưu tầm
nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một
"kho tàng không thể thay thế được," nhưng không phải về diện tài
chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn, ngài
cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà
Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại,
Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm
này.
Sự thật của vấn đề này
là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ những nghệ
phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh là một động lực truyền
bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời trung cổ cẩn thận chép
lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai -- nếu không thì những văn
bản này không còn nữa -- Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ thuật để chúng không
bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày nay khi mà từ
"văn minh" chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá văn minh của
Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
Ngày nay có lẽ bạn đã
nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm dụng tính dục
trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa
ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống
tính luyến ái làm linh mục, v.v...). Nhiều người đổ tội cho Hội Thánh vì quá
cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.
Sự thật là nhiều tư
tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng
đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, Hội Thánh đã
bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng tư tưởng nào
hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra hết lạc giáo
này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta
không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay -- tất cả
các giáo hội đó đều một thời có "những tư tưởng mới" mà Hội Thánh cho
là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
Hội Thánh có môt nhiệm
vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh không bao giờ loại
bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn
năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và phải giữ gìn là chân
thật.
Ðiều này không có
nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn luôn
có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về chân lý
-- thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa giáo sĩ
và giáo dân-- tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức Tin.
Khi hành vi đồng tính
luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có
nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ
tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằng Thánh
Kinh -- khi hiểu đúng -- không cấm những hành vi đồng tính.
Nhưng luận điệu này
hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các
câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra. Nếu bạn nhớ
lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
"Nhưng khi các
ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến
già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: "Những người
vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi." Ông Lót ra
trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng," rồi nói: "Thưa
anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với
đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm,
nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái
nhà tôi." Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một kiều dân đến
đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những
tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách
đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)
Thông điệp của đoạn
này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ tính
dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông, nhưng
họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân chúng
phạm -- đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này được Tân Ứớc
xác nhận:
Như Sôđôm, Gômôra và
các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà
dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm
gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng không phải chỉ
có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một
câu khác lên án cách rõ ràng: "Ngươi
không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm." (Levi 18:22).
Và những câu này không
chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
"Vì lý do đó mà
Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên
hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ
liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi
bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của
họ." (Rom1:26-27)
Thật khó vô cùng cho
những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không chỉ nói
đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng Thánh Phaolô chống
lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là "trái tự
nhiên," "tồi bại" và "đồi bại").
Các Kitô hữu cấp tiến
bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với
Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh,
và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
Ðúng --Sách Giáo Lý
nói rất thẳng, "Con người có quyền hành động theo lương tâm và sự tự do để
tự mình quyết định về luân lý. "Không được cưỡng bách ai hành động trái
với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc
biệt là trong những vấn đề tôn giáo " (1782). Giáo huấn này là trọng tâm
của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng điều đó không có
nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của
Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có "một lương tâm được
huấn luyện chu đáo."
Sách Giáo Lý trao cho
lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
"Lương tâm luân lý, hiện diện
trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người làm lành lánh dữ....
Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo Sự Thiện Hảo
tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và đón nhận mệnh
lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe tiếng Thiên Chúa
đang nói" (1777).
Nói cách khác, lương tâm chúng ta không
phải chỉ là "cái gì chúng ta cảm thấy đúng"; mà là những gì chúng ta
phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên
Chúa và Hội Thánh. Và để phán đoán, chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu
nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lý có trọn một phần dành
riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng -- và nó quan trọng thế nào
trong việc quyếtb định đúng.
Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta
vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: "Lương tâm giúp chúng ta gánh
nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm" (1781). Khi được đào luyện
đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội
lỗi chúng ta.
Bằng cách cố gắng để có một lương tâm
được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì
chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là
một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích;
nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. "Việc giáo
dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an trong tâm hồn"
(1784).
Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù
mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách
nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu
chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới của hai cực đoan.
Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa
thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta -- và cách chung sự tự
nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có
thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú
thuần túy.
PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì
còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài
chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên
quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh
của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời, và trên hết là cầu
nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham gia vào đó
với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.
Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản
chỉ vào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy
hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng
PPTN -- những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả -- và Hội Thánh
cho phép dùng nó.
Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ
phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn
là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin
tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng
chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này.
Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung
tung và nói rằng "Thiên Chúa sẽ cung cấp," các gia đình cẩn thận dự
trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá khả năng của mình. PPTN
cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta
trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu nguyện. Biết mình và
dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ Thiên Chúa lo liệu
mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời gọi để trở nên
những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn thận đừng coi
thường các ân huệ này.
Trong khi đây là một huyền thoại thông
thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ
đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được
liệt kê cùng với tội giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm,
"Chớ giết người."
Những đoạn sau nói rõ: "Sự sống
con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ
thai" (2270). "Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về
luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không
bao giờ thay đổi" (2271). "Hợp tác chính thức vào việc phá thai là
tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống
con người" (2272).
Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy
nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người "tự do chọn lựa" không
có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là sai, nhưng không
muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Ðó là lại là luận "điều đúng cho
bạn có thể không đúng cho tôi" mà thôi. Hội Thánh cũng có câu trả lời cho
lập luận này: "Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội
dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộc
vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và
của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do
chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người"
(2273)..
Tính linh thiêng của sự sống là một
chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ
phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là một tội trọng, vì nó đưa
người khác đến tội trọng - là điều mà Sách Giáo Lý gọi là làm gương mù
(2284).
Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống
phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của
chúng ta như thế.
Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn
với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận
rằng "nhớ lại kiếp trước". Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp
bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên.
Trong khi điều này có thể thuyết phục
một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được những người quen thuộc với
thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân
ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp,
mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ
hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi
miên.
Ðáng buồn là đây không phải là trường
hợp đối với những người muốn tìm "bằng chứng" của luân hồi. Có lẽ thí
dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy.
Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ
ở Colorado
tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho
rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ
Lan.
Câu chuyện của bà ta được viết thành
cuốn sách bán chạy nhất, "Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy," và được nhiều
chú ý. Các ký giả lục xoát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào
có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì,
trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân
hồi.
Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia
Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí
tưởng tượng linh động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp
(thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những
chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ
người Ái mà tên họ là -- bạn oán xem -- Bridie.
Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện
trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ chính đời sống của bà (mà không
cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ, Bridey diễn tả về "Bác
Plazz," mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của người Gaelic
"Bác Blaise." Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người
bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là "Bác Plazz."
Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig
của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được
cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu
nhảy này khi còn bé.
Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy,
những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thức tế. Cho đến
ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại
được kiếp trước. Chắc chắn là cò nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm
soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng
Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.
DEAL HUDSON
GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét